Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng và hành động lãnh đạo xây dựng, phát huy sức mạnh thế trận lòng dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam nói chung là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và trong chiến tranh cách mạng. Cơ sở thực tiễn là xuất phát từ lòng yêu nước, sự đồng tâm của đồng bào Việt Nam, từ lực lượng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và “trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi”[1]. Nghiên cứu cách mạng Pháp, Người chỉ ra những bài học mà cuộc cách mạng này đã dạy cho chúng ta là “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”[2]. Xem xét các yếu tố chủ yếu để có được thành công trong hoạt động quân sự, Người nhấn mạnh 3 yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau là “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, trong đó “nhân hòa” là quan trọng nhất. Nói nhân hòa là trong đó có cả lòng dân, lòng quân. Với những quan điểm trên và xuất phát từ thực tế ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng việc xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong chiến tranh nhân dân.
Ngày 06/12/1953, tại Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên, Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng với các đồng chí trong Bộ Chính trị thông qua chủ trương, kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, quyết định
mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu)
Ở cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người cùng với Trung ương bàn bạc đưa ra các quyết định về chủ trương, biện pháp, vừa là người trực tiếp chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện, theo dõi uốn nắn những lệch lạc; động viên, cổ vũ, định hướng, nuôi dưỡng phát huy những giá trị đã được tạo dựng thành sức mạnh của thế trận lòng dân trong suốt cuộc kháng chiến nói chung; trước và trong quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên phủ nói riêng. Ngay từ thời kỳ đầu chuẩn bị cuộc kháng chiến, trong bài viết “Hình thức chiến tranh ngày nay” đăng trên Báo Cứu quốc, số 351, ngày 20-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”[3]. Tiếp đó, Người khẳng định “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”[4]. Theo Người “Lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch”[5].
Để xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong kháng chiến, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chính sách đều nhằm vào lợi ích của nhân dân, phải làm cho sự đóng góp của nhân dân được công bằng và phải bồi dưỡng sức lực của nhân dân. Đặc biệt, phải phát động quần chúng một cách đầy đủ, thực sự giành lấy ưu thế quần chúng hơn nữa.
Trên nền tảng của tư tưởng chiến tranh nhân dân và với một tầm nhìn chiến lược, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã chuẩn bị từng bước xây dựng thế trận lòng dân cho trận quyết chiến lược tại Điện Biên Phủ. Nổi bật là bắt đầu từ chiến dịch Tây Bắc 1952.
Tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương mở hướng tiến công chiến dịch lên Tây Bắc. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc chính thức mở màn từ 14/10/1952. Sau ba tháng chiến đấu, ngày 10 tháng 12 năm 1952 chiến dịch toàn thắng. Giải phóng Tây bắc, quân và dân ta làm chủ một địa bàn chiến lược rộng tới 44.300 km2 với số dân số 440.000 người, chúng ta có dân có đất - điều kiện tiên quyết để tiếp tục các hoạt động xây dựng thế chiến lược của chiến tranh nhân dân tại địa bàn này (trong đó có thế trận lòng dân). Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch đánh giá: “Thu đông 1952 là thu đông chiến thắng Tây Bắc. Nếu nhìn rộng ra toàn chiến trường Bắc Bộ thì đó là thắng lợi lớn của ta trên con đường tiếp tục giành thế chủ động... Thắng lợi đó đã rèn luyện nhiều cho bộ đội ta về kỹ thuật, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường lực lượng kháng chiến của nhân dân, nâng cao lòng tin tưởng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đối với Đảng và Hồ Chủ tịch…”[6],
Trong quá trình diễn ra chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn theo dõi sát diễn biến tình hình chiến dịch. Người đã nhiều lần trực tiếp nói chuyện, gửi thư khen, động viên cán bộ chiến sĩ, dân công tại mặt trận và nhân dân các địa phương nhằm phát huy cao độ những giá trị tinh thần - một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh của chiến tranh chính nghĩa và là nội dung cốt lõi của thế trận lòng dân trong chiến tranh nhân dân Việt Nam. Như vậy, có thể thấy, Đảng ta, trực tiếp là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một tầm nhìn chiến lược, chuẩn bị từng bước thế trận lòng dân trên địa bàn này để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên phủ hai năm sau đó.
Sau chiến thắng Tây Bắc sức mạnh của thế trận lòng dân cả nước tiếp tục được tăng cường do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất, chỉnh quân và chỉnh đảng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vấn đề độc lập dân tộc và người cày có ruộng trở thành mục tiêu tranh đấu trực tiếp của dân tộc Việt Nam. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc"[7]. Giải quyết vấn đề ruộng đất và các quan hệ kinh tế gắn liền với ruộng đất thực chất là từng bước giải phóng nông dân, là tăng cường thực lực kháng chiến.
Trước Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa II (01/1953) vì hoàn cảnh đặc biệt, Đảng và Chính phủ chỉ thi hành chính sách giảm tô, giảm tức. Sau 7 năm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thế và lực của cách mạng Việt Nam đã mạnh lên cho phép Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch có bước đi mới trong khuôn khổ của cách mạng dân chủ nhân dân. Giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất là việc làm trực tiếp bồi dưỡng sức dân và tạo dựng niềm tin của nông dân với cuộc chiến đấu mà họ là lực lượng tham gia đông đảo nhất. Niềm tin vào Đảng và Hồ Chủ tịch, lòng yêu nước, ý chí và tinh thần kháng chiến của nhân dân yếu tố tạo dựng nên sức mạnh của thế trận lòng dân sẽ được phát huy mạnh mẽ, tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến ở giai đoạn chuẩn bị bước vào tổng phản công. Đối với nhân dân các dân tộc Tây Bắc vừa được giải phóng, giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất như liều thuốc kích hoạt, làm gia tăng sự đồng thuận cao về mặt chính trị tinh thần và sức mạnh vật chất đóng góp cho cuộc kháng chiến nói chung, cho trận quyết chiến chiến lược nói riêng trên một hướng chiến trường đặc biệt quan trọng nhưng lại cách rất xa căn cứ địa cách mạng Việt Bắc.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Cải cách ruộng đất sẽ giúp ta giải quyết nhiều vấn đề: Về quân sự, nông dân sẽ càng hăng hái tham gia bộ đội, để giữ làng giữ nước, giữ ruộng đất của mình. Đồng thời cải cách ruộng đất sẽ có ảnh hưởng to lớn giúp làm tan rã ngụy quân. Về kinh tế - tài chính, nông dân đủ ăn đủ mặc, tăng gia sản xuất được nhiều, thì nông nghiệp sẽ phát triển. Họ có tiền mua hàng hóa, thì thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghệ của giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, cũng như công thương nghiệp quốc doanh sẽ được phát triển. Nông dân hăng hái đóng thuế nông nghiệp thì tài chính của Nhà nước được dồi dào. Về chính trị, khi nông dân đã nắm ưu thế kinh tế và chính trị trong làng, nhân dân dân chủ chuyên chính sẽ được thực hiện rộng khắp và chắc chắn”[8].
Trong thời gian chuẩn bị và tiến hành chiến dịch, Chính phủ và các địa phương thuộc căn cứ địa Việt Bắc và và các địa phương thuộc vùng tự do của Khu IV đã huy động được hàng vạn dân công và thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ chiến trường, làm đường giao thông và các công việc phục vụ hỏa tuyến. Tại chiến trường Tây Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ, thắng lợi của giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất thực sự tạo cho nhân dân các dân tộc Tây Bắc hăng hái tham gia các hoạt động phục vụ chiến dịch, đóng góp hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm cho mặt trận; nhân dân địa phương, cán bộ chiến sĩ các đơn vị, hàng vạn dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong thêm tin tưởng vào Chính phủ và Hồ Chủ tịch, quyết tâm cao độ trong thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh cho chiến thắng.
Cùng với tiến hành giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất, trước chiến dịch Điện Biên phủ, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh đã tiến hành tổ chức chỉnh đảng, chỉnh quân. Mục đích của chỉnh Đảng, chỉnh quân là nhằm nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản, quán triệt tình hình nhiệm vụ và đấu tranh chống lại các biểu hiện cá nhân trong cán bộ, đảng viên, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, tạo sự nhất trí cao trong đội ngũ cán bộ của Đảng và các cơ quan của Chính phủ. Kết quả của việc chỉnh Đảng, chỉnh quân không những làm cho tinh thần, sức mạnh của con người của tổ chức Đảng, của quân đội được nâng lên rõ rệt mà còn tác động, ảnh hưởng tích cực tới tinh thần của nhân dân. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào quân đội, tiếp tục được củng cố và tăng cường. Cùng với chỉnh đảng, chỉnh quân, Chủ tịch Hồ Chí minh đã phát động phong trào thi đua ái quốc với khẩu hiệu "tất cả cho tiền tuyến". Người kêu gọi toàn quân, toàn dân dốc sức cho thắng lợi của cuộc kháng chiến và Chiến dịch. Cũng như trong chiến dịch Tây Bắc, trong quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bằng những việc làm cụ thể để khích lệ tinh thần chiến đấu, phục vụ chiến đấu của các lực lượng. Sức mạnh của thế trận lòng dân trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên phủ, nhờ đó mà không ngừng được phát huy.
Bàn về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ không thể không nói đến một quyết định sáng sáng suốt khác của chủ tịch Hồ chí Minh và Trung ương Đảng trong tạo lập và xây dựng thế trận hậu cần nhân dân.
Tây Bắc, trong đó có lòng chảo Điện Biên phủ cách căn cứ địa Việt Bắc và vùng tự do khu IV trên ba trăm cây số, địa hình hiểm trở, điều kiện kinh tế của các địa phương trong vùng do mới được giải phóng nên còn hết sức khó khăn. Việc đảm bảo hậu cần chiến dịch bao gồm cả hậu cần nhân dân, hậu cần quân sự, hậu cần tại chỗ và hậu cần chiến dịch vì thế là vấn đề nan giải đối với Bộ chỉ huy mặt trận và Chính phủ. Để giải quyết bài toán hậu cần tại đây, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã thành lập Hội đồng cung cấp hậu phương, giao cho đồng chí Phạm Văn Đồng (lúc đó là Phó Thủ tướng) làm chủ tịch, huy động hàng chục vạn dân công và thanh niên xung phong của các địa phương thuộc căn cứ địa Việt Bắc và vùng tự do Liên khu IV để vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men đạn dược, vận chuyển thương binh, quản lý tù hàng binh tại mặt trận; khai thác những điều kiện vật chất tại chỗ, huy động sức người, sức của các địa phương Tây Bắc (thuyền mảng, lừa, ngựa...) tổ chức xay xát gạo tại mặt trận, mở đường vận chuyển bộ bằng lừa ngựa, xe đạp thồ, ô tô, làm đường kéo pháo và lập các điểm nghi binh địch... Thắng lợi của công tác hậu cần tại mặt trận Điện biên Biên phủ đã góp phần làm cho thế trận lòng dân của chiến dịch trở nên hoàn chỉnh.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu hy sinh, gian khổ, ngày 07/5/1954, lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng"
tung bay trên nóc hầm De Castres ở Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu)
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ là thắng lợi của tư tưởng chiến tranh nhân dân Hồ Chí Minh và đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng ta. Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, bồi dưỡng “tín tâm và quyết tâm” kháng chiến của nhân dân; nâng cao vai trò và uy tín của lực lượng lãnh đạo nhân dân, nhân dân đã đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để cùng với quân đội đưa kháng chiến đến thành công. Hơn 60 năm đã trôi qua, nhưng các thế hệ người Việt Nam sẽ mãi mãi nhắc tới chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã để lại một trong những điều đặc biệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, đó là người dân tham gia vào chiến dịch này đông gấp nhiều lần quân đội. Có thể nói, không có sự đóng góp sức người, sức của to lớn đó của nhân dân thì không có chiến thắng Điện Biên Phủ và sự đóng góp ấy là kết quả của việc xây dựng và phát huy thế trận lòng dân dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong tình hình mới càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Tất cả nhằm xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
[1] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ. M.1977, T39, tr 271.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 2, tr 297.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 4, tr 344.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 5, tr 179.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 5, tr 448.
[6]Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu, Xb. 1963, t. 2, tr.217
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 8, tr.31
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 8, tr.31
Ths Đặng Công Thành, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(https://dangcongsan.vn/)